Ba chàng thiện nghệ - Truyện cổ tích Việt Nam
Ngày
xưa, có nhà họ Lê có một cô gái nhan sắc xinh đẹp. Không những thế,
nàng còn văn hay chữ tốt, lại thạo đủ các nghề. Những cô gái đẹp trong
vùng khó có cô nào ăn đứt. Khi nàng đã đến tuổi lấy chồng, có nhiều
chàng trai hoặc con quan, hoặc con nhà giàu, hoặc tú cử đến cầu hôn,
nhưng ông già họ Lê đều từ chối. Ông nói với mọi người: - "Con gái tôi
không muốn làm bà quan, cũng không thích làm bà phú hộ. Nó chỉ muốn lấy
một người chồng có nghề cầm tay mà nghề đó phải tinh thuần không ai hơn
mới được. Nếu không thế thì chả nên đến làm gì cho mất công!".
Tin
kén rể bay ra, những tài năng bốn phương tấp nập đến xin ra mắt, nhưng
chả một ai làm cho ông già họ Lê vừa ý. Người ta chỉ thấy ông than vãn
sau mỗi lần thử sức: - "Tài năng trong thiên hạ thực hiếm lắm thay!".
Một
hôm, trong buổi sáng ông tiếp luôn một lúc ba chàng trẻ tuổi, khỏe
mạnh, đẹp trai. Sau khi nghe họ trình bày tên tuổi, nghề nghiệp, ông già
mới biết đó là ba nhân tài quê ở ba nơi, tình cờ gặp nhau tại đây. Một
người tự xưng bắn giỏi có thể bắn bất cứ một vật gì dù khó đến đâu, và
dù xa bao nhiêu. Một người tự xưng lặn giỏi có thể sống dưới nước hàng
tuần mà không sợ nguy hiểm, có thể tìm thấy những vật nhỏ bé ở dưới đại
dương. Còn người thứ ba thì tự xưng là một thầy thuốc lành nghề, có thể
cải tử hoàn sinh bất kỳ một con bệnh nào,kể cả những con bệnh vừa tắt
thở.
Ông già Lê rất vui mừng, vội dắt người thứ nhất ra sân, trỏ một cây thông cao chót vót ở bờ giậu mà bảo:
-
Tôi sẽ cho người nhà trèo lên ngọn cây đánh dấu vôi vào một cái lá,
ngài cố gắng bắn thế nào cho lá đó rụng xuống trước mặt chúng ta, lúc đó
tôi mới tin là thực tài.
Nghe
nói thế, anh chàng không hề từ chối, vội chuẩn bị cung nỏ. Quả nhiên,
chỉ một mũi tên văng ra, ngọn lá thông có dấu vôi rơi xuống trước con
mắt kinh ngạc của mọi người.
Khi thử tài người thứ hai, ông già họ Lê dẫn chàng ra bờ biển trước nhà. Đoạn, ông đưa cho xem một chiếc nhẫn và nói:
-
Bây giờ tôi cho một người chèo thuyền ra khơi, thả chiếc nhẫn này xuống
nước, ngài cứ theo hướng đó tìm hộ đưa về đây cho mọi người trông thấy.
Anh
chàng chẳng nói chẳng rằng cởi áo nhảy ngay xuống biển và chỉ giập bã
trầu là chàng đã nổi lên khỏi mặt nước với một vẻ đắc thắng, giơ chiếc
nhẫn cho mọi người xem.
Để
thử người thứ ba, họ lại đem nhau ra chợ. Chỉ vào một người ăn mày đang
sắp sửa nhắm mắt tắt hơi, ông già bảo chàng hãy cố chữa cho người đó
sống lại.
Người
ta thấy anh chàng cúi xuống bắt mạch rồi bỏ đi. Đến một bụi cây, anh rẽ
vào kiếm các thứ lá đem về sắc lên, đổ vào miệng người ăn mày. Không
mấy chốc, người ăn mày đã ngồi dậy đòi ăn, y như sau một giấc ngủ dài mê
mệt vừa tỉnh.
Thấy cả ba người đều thiện nghệ, ông già họ Lê bối rối không biết nên gả con gái cho ai. Ông mới bảo họ:
-
Cả ba vị quả có chân tài, con gái tôi mà được sánh duyên thật là một
điều may mắn. Nhưng ngặt vì "thuyền quyên có một mà anh hùng lại ba",
biết làm thế nào bây giờ? Thôi thì chúng ta ra miếu thành hoàng làm lễ,
gieo quẻ để hỏi ý. Nếu quẻ chỉ nhằm người nào thì xin để cho "tiện nữ"
về với người đó.
Ba
người bằng lòng, cùng ra miếu thành hoàng. Nhưng trong lúc làm lễ, bỗng
có người nhà hốt hoảng chạy tới báo tin cô gái đang cuốc cỏ ở ruộng
bỗng bị chim đại bàng cắp tha đi mất. Nghe nói thế, tất cả mọi người đều
bỏ cuộc lễ chạy ù ra đồng thì đã thấy đại bàng đang bay thẳng ra biển.
Anh chàng bắn giỏi vội lắp tên vào cung, bắn luôn một phát. Không đợi
đến phát thứ hai, đại bàng đã bị trúng tên gãy cánh lặn xuống nước, mang
theo cả cô gái xuống luôn. Thấy thế, chàng giỏi lặn lập tức nhảy ngay
xuống cứu. Chàng lặn một mạch đến chỗ chim rơi và cuối cùng đưa được cô
gái lên bờ. Nhưng bây giờ cô gái chỉ là một cái xác không hồn, bụng
trương phềnh những nước. Đến lượt nhà danh y giở tài của mình, tìm thuốc
chữa cho cô gái. Chỉ một chốc, nàng đã nôn ra bao nhiêu là nước và hồi
tỉnh lại.
Bấy giờ ba chàng cầu hôn tranh nhau kể công lao của họ vơi cha con ông già họ Lê. Người thứ nhất nói:
- Nếu không có tôi bắn con quái vật thì chưa chắc đã tìm thấy dấu vết của nàng. Vậy nên gả nàng cho tôi.
Người thứ hai cãi lại:
- Hãy khoan đã, nếu không có tôi vớt nàng lên thì dù có bắn giỏi thế nào đi nữa cũng thật là vô ích.
Người thứ ba cũng tiếp luôn:
-
Nhưng nếu không có công tôi cải tử hoàn sinh thì dù các anh có cứu được
cũng chỉ cứu một cái xác thôi. Vậy tôi xứng đáng được kết duyên với
nàng mới phải.
Cả
ba người không ai chịu ai. Ông già họ Lê và những người được chứng kiến
đều lấy làm bối rối, không biết nên trả lời thế nào. Cuối cùng họ dắt
nhau lên quan để nhờ phân xử.
Sau bao nhiêu ngày suy nghĩ, quan cho đòi ba chàng cùng với hai cha con ông già tới công đường. Trước mặt họ, quan phán bảo:
-
Trong việc cứu cô gái này, cả ba người đều có công lao ngang nhau, nếu
thiếu một người cũng khó mà thành. Nhưng anh thầy thuốc, anh không thể
kể công như thế được. Không phải cứ cứu chữa lành cho người ra là đòi
lấy người ta làm vợ. Đối với anh, người được cứu sống phải coi như ân
nhân chứ không bắt buộc phải coi như chồng. Còn anh thợ bắn,
nếu anh biết rằng không có một người nào sẽ lặn ra cứu cô gái thì việc
làm của anh chỉ có tính chất báo thù chứ không thể gọi là cứu vớt. Tất
nhiên, anh bắn trúng chim chứ không bắn trúng người là có dụng ý tốt.
Nhưng giết chết chim mà không nghĩ rằng người cũng rơi xuống nước thì
dụng ý đó của anh hãy còn thiếu sót. Vậy đối với anh, cô gái này cũng
chỉ coi như một vị ân nhân. Còn anh giỏi lặn, anh là một trong những
người cứu cô gái, mà công việc cứu vớt lại bắt buộc anh phải ôm cô gái
trong tay suốt buổi. Sách xưa có nói rằng trừ vợ chồng ra, thì "nam nữ
thụ thụ bất thân". Bây giờ anh đã lỡ gần gũi cô gái đó thì hai người
phải được kết duyên với nhau mới là hợp lẽ. Tuy nhiên, đối với các ân
nhân, hai vợ chồng phải nhận họ làm anh em kết nghĩa.
Nghe
quan phân xử có tình có lý, mọi người đều vui vẻ tuân lời. Ba chàng
trai kết nghĩa trở thành anh em thân mật hơn ruột thịt. Còn chàng lặn
giỏi kết duyên cùng cô gái nọ. Lễ cưới cử hành rất linh đình, có cả hai
chàng kia cùng dự.[1]
KHẢO DỊ
Một truyện ở Hà Tĩnh nhan đề Tứ hải giai huynh đệ
cũng cùng một nội dung với truyện trên, nhưng đáng lý có ba chàng tới
cầu hôn thì ở dị bản này lại có thêm một chàng thứ tư có tài nhìn xa
muôn dặm. Trong truyện không có cuộc thử thách và việc đến lễ miếu thành
hoàng, nhưng cũng có tình tiết chim đại bàng tha cô gái quý, và phú ông
- cha cô gái - nói với cả bốn chàng: hễ ai cứu được con thì sẽ gả cho
làm vợ. Anh chàng nhìn xa là người đầu tiên nhìn thấy đại bàng mang cô
gái bay giữa biển cả, bèn chỉ cho chàng giỏi bắn đuổi theo bắn, và sự
việc lần lượt xảy ra như truyện vừa kể. Rốt cuộc, bốn anh chàng ở bốn
phương trời trở thành anh em chí thân.[2]
Các
truyện trên khá phổ biến ở thế giới. Nhà cổ tích học Pháp nổi tiếng
Cô-xcanh (Cosquin) trước khi chết có viết dở dang một bài nghiên cứu về
các loại dị bản của một cốt truyện - mà ông gọi tên là Cô gái bị bắt được cứu thoát và những nhân vật có tài lạ[3]
- trong quá trình di chuyển giữa các dân tộc khác nhau. Nói chung, so
sánh các truyện lưu hành ở các dân tộc thì đều có những nét tương đồng,
nhưng mỗi nhóm dị bản thường có một kết cục riêng, có nghĩa là cách xử
lý cũng như cách đánh giá công lao của các nhân vật có tài trong truyện,
ở mỗi dân tộc cũng có những sắc thái riêng biệt. Chúng tôi chỉ kể ra
đây một số truyện:
Truyện của người Khơ-me (Khmer), của người Lào giống với truyện của ta hơn cả, nhất là về kết cục:
Có
bốn anh chàng hăm hở đến thành phố Tắc-xi-la để học nghề. Một người học
về thiên văn bói toán, một người học cách dùng vũ khí, một người học
bơi lặn, một người học nghề cứu chữa thiên hạ. Thành tài, họ trở về quê,
dọc đường nghỉ ở bãi biển. Sáng hôm sau, chàng học thiên văn cho biết
có công chúa con vua Pê-a-rê-an-xây bị chim đại bàng tha đi, sắp bay qua
đây. Cũng như truyện của ta, ba chàng kia lần lượt góp phần cứu công
chúa, và sau đó cả bốn đều tranh lấy nàng làm vợ. Quan không xử được,
đưa lên Bồ-tát, Bồ-tát xử cho người biết thiên văn là thầy của công chúa
vì anh dạy cho ba người kia hướng tìm người bị nạn; người bắn nỏ là cha
vì anh có công bảo vệ công chúa; người chữa sống lại là mẹ vì anh giành
lại cho công chúa cuộc sống; người nhảy xuống biển ôm công chúa vào
lòng mới là chồng. Nhưng lấy nhau rồi, hai vợ chồng phải ghi nhớ công ơn
của những người kia.[4]
Truyện
của người Thái Lan là một câu đố do một hoàng tử đưa ra, trong đó kể
câu chuyện bốn người là bà-la-môn cứu một cô gái (đại thể cũng hơi giống
truyện trên). Sau đó hoàng tử đố: "Ai đáng lấy cô gái hơn cả?".
Một
người bạn của công chúa ứng vào ống nhổ trả lời: - "Lấy người chữa cho
cô gái sống lại". Công chúa đá cái ống nhổ một đá và cãi lại rằng: -
"Lấy người lặn vì nó ôm cô gái vào tay".
Một
truyện của người Bê-lút-sít-xtăng (Baloutchítan) (dân tộc ở phía Đông
I-răng (Iran)) cũng có kết thúc tương tự với các truyện trên, tức là
giống ở quan niệm đạo đức của người phân xử:
Có
ba chàng trai trẻ (không phải hoàng tử) mồ côi cha ở với cậu, người cậu
đặt điều kiện cho họ nếu ai đi chơi xa tìm được vật quý và lạ thì sẽ gả
con gái cho. Ba vật quý mà ba người mua được là: một vật hình quả cầu
có thể tiết ra nước, nước ấy có thể làm cho người chết sống lại, một cái
giường biết bay và một cái gương có thể nhìn xa hàng vạn dặm. Trên
đường về, chàng trai làm chủ cái gương chợt nhìn thấy con gái của cậu đã
chết, lúc ấy người ta đang khâm liệm để chôn. Anh vội báo tin cho hai
người kia biết và nhờ có hai vật quý còn lại, họ trở về kịp thời, cứu cô
gái sống lại.
Người
cậu bối rối không biết gả con cho ai, bèn đưa việc lên vua để vua phân
xử. Vua phán: - "Chiếu theo luật, ta xử cho người nào thấy cô gái khi
người ta đang khâm liệm nàng, được lấy nàng làm vợ, vì hắn đã thấy nàng
trong khi người ta rửa ráy thi hài. Nếu không lấy hắn làm chồng, nàng sẽ
rất xấu hổ mỗi lúc gặp hắn".
Các
truyện dưới đây thì cô gái hoặc không kết hôn, hoặc kết hôn với một
trong những người cứu mình, nhưng không xuất phát từ quan niệm đạo đức
như trên.
Truyện của người Đức do anh em Grim (Grimm) sưu tập:
Có
bốn anh em một nhà nghèo kia từ giã cha, mỗi người đi một phương học
nghề. Người con đầu gặp một người ăn trộm thiện nghệ và nghe lời hắn,
theo học nghề ấy. Sau ba năm hắn trở nên trộm giỏi, đến nỗi muốn lấy của
ai chỉ trong nháy mắt là lấy được ngay, mà kẻ bị mất vẫn không biết gì.
Người em thứ hai học nhìn xa với một thầy khác và sau ba năm thành tài,
được thầy cho một cái ống nhòm, có thể nhìn thấy mọi vật ở ngoài vạn
dặm. Người thứ ba học bắn và sau đó với khẩu súng của thầy cho, hắn có
thể bắn trúng theo ý muốn dù khó mấy cũng chẳng sai. Còn người em út học
nghề may, sau ba năm thầy cũng cho một cái kim có thể khâu vá tất cả
mọi vật mà không thấy vết.
Đúng
ngày hẹn, anh em trở về quê cũ. Họ trổ tài cho bố xem, người thứ hai
đứng dưới đất mà biết được số trứng chim năm quả trong một cái tổ trên
cây cao có con chim mẹ đang ấp; người anh cả trèo lên trộm lấy trứng
xuống mà chim mẹ không hay biết gì cả; người thứ ba bày trứng lên mấy
góc bàn bắn một phát trúng cả năm mà trứng không vỡ; người thứ tư khâu
lại lành lặn như cũ. Đoạn người anh cả lại đưa đặt trứng lên tổ cũ. Sau
đó mấy hôm trứng nở mỗi con chim non co một vành đỏ ở cổ, dấu vết đường
chỉ khâu của người em út.
Không
bao lâu, có tin công chúa bị rồng bắt đi mất. Bốn anh em nghe nói vua
sẽ gả công chúa cho kẻ nào cứu được, bèn đến kinh xin một chiếc tàu để
đi tìm. Trước tiên, người em thứ hai nhờ cái ống nhòm, nhìn thấy công
chúa ở trên một núi đá, còn con rồng thì đang ngủ, đầu gối lên đùi công
chúa. Người anh cả một mình lên núi trộm được công chúa xuống tàu, dong
buồm mà chạy. Khi rồng thức dậy thấy mất công chúa, vội đuổi theo tàu.
Chàng thiện xạ bắn luôn ba phát, rồng rơi xuống, tàu vỡ tan từng mảnh.
Trong khi nguy cấp, chàng giỏi khâu vá đã làm cho tàu liền lại như cũ,
cuối cùng về được đến nhà. Thấy họ kể công lao của mình với mục đích
giành công chúa, vua cắt nửa đất nước giao cho họ trị vì, để khỏi phải
gả công chúa cho người nào cả.
Truyện
của người Xla-vơ (Slave) ở Mô-ra-vi (Moravie) giống với truyện của Đức,
nhưng người thợ may được thay bằng thợ vá. Người con đầu đi học nghề
trở về nói với bố: - "Con làm thợ vá nhưng không phải vá như người ta;
hễ thấy cái gì cũ, con chỉ nói hai tiếng "chữa lại" là xong ngay". Và
anh nói thử mấy tiếng, cái áo của người bố bị rách cùi tay liền lành lặn
như cũ. Người thứ hai nói: - "Con ăn trộm cũng vậy, chỉ nghĩ đến một
vật gì đó, dù xa bao nhiêu, là có thể có trong tay rồi". Người thứ ba
nói: - "Con nhìn lên trời, có thể thấy được mọi nơi trên trái đất".
Người con út nói: - "Con là thợ săn, nhưng chỉ cần nói đến con vật nào
đó là lập tức nó bị bắn chết".
Rồi
đó, nhà thiên văn cũng phát hiện ra công chúa bị rồng bắt giam ở một
hòn đảo trên Hồng Hải. Bốn anh em đi tàu đến đảo. Người ăn trộm chỉ nói:
- "Công chúa đến đây", thế là công chúa có mặt trên tàu. Khi bị rồng
đuổi, người thợ săn nói: - "Bắn chết" thì rồng liền rơi xuống, nhưng xác
nó lại làm thủng tàu. Thấy thế, người thợ vá chỉ nói một tiếng "vá" là
vá xong tàu.
Khi
họ tranh giành công chúa, vua bảo:- "Nếu các anh còn tranh nhau, ta sẽ
cắt con ta làm bốn cho mỗi người một phần, vì vua không bao giờ nói hai
lời, nhưng như thế chả có lợi gì". Bốn người bằng lòng để cho cô gái
chọn lấy một anh làm chồng, còn ba người kia làm quan to trong triều.
Người
Nùng cũng có một truyện gần giống với hai truyện trên, nhưng lại thêm
một người độn thổ để có một đoạn kết với diễn biến hơi khác. Ở đây có
năm anh em thiện nghệ: một người ăn trộm, một người bắn tên; một người
nhìn ống nhòm (làm bằng hai trăm loại gỗ khác nhau), một người may vá,
và một người do cứu con gái Long vương mà học được nghề bơi lội và độn
thổ.
Đúng
hẹn, họ trở về và cũng có một công chúa bị rồng bắt để cho họ trổ tài,
hy vọng được lấy công chúa như lời hứa của nhà vua. Anh thợ vá ghép ba
trăm tấm ván thành tàu ra biển. Anh có ống nhòm chỉ đúng chỗ ở của rồng.
Anh ăn trộm đưa công chúa lên tàu.Anh bắn giỏi giết con rồng khi nó
đuổi. Anh thợ vá chữa lại tàu vì bị rồng làm cho vỡ tan. Trong khi đó
một con yêu tinh (giá chan) tới bắt công chúa mang đi mất. Anh có ống
nhòm lại tìm thấy công chúa ở trong hang sâu dưới núi. Anh độn thổ chui
xuống đất cõng về. Anh bắn tên giết yêu tinh khi mụ đuổi theo. Yêu tinh
chồng lại tới bắt đưa đi nhưng cũng bị bắn chết. Khi công chúa được cứu
về, vì không biết gả cho ai, nhà vua bảo họ làm anh em kết nghĩa với
công chúa rồi phong cho làm quan to trong triều.[5]
Truyện của Hy Lạp (Grèce):
Bảy
anh em cứu được một nàng công chúa khỏi tay quái vật, đưa về một lâu
đài kín, dặn công chúa đừng nhìn qua cửa sổ. Nhưng đêm lại công chúa
nhìn ra ngoài vì có tiếng nhạc hấp dẫn, nên bị con quái vật ẩn trong đám
mây đen bắt đi. Người giỏi bắn vội bắn thủng đám mây, quái vật chết.
Một trong số những người em có tài tung hứng bèn giơ cánh tay ra đón
công chúa rơi xuống kịp thời. Đứa công chúa về đến nơi họ tranh công,
vua bảo cắt công chúa làm bảy phần chia cho họ vì xét thấy ai cũng có
công ngang nhau. Bảy anh em đều xin thôi, được vua thưởng rất hậu.
Truyện của người Can-đê ở I-răng (Iran) thì kết cục lại để cô gái kết hôn với nhà thiên văn:
Có
ba anh em cùng yêu một cô em họ. Người bố không biết xử trí ra sao, bèn
bảo họ đi học mỗi người một nghề, ai tài giỏi hơn sẽ gả. Một người học
nghề thiên văn, một người học nghề kỹ sư, và một người học nghề thầy
thuốc. Cả ba cùng gặp nhau ở một địa điểm. Nhà thiên văn cho biết cô gái
đang bệnh nặng, nhà kỹ sư tính toán ngay đường sá, chế một cái xe để
đi, và cuối cùng đưa được người thầy thuốc về kịp thời, nhờ đó chữa cho
cô gái bình phục.
Khi
họ ra sức tranh công, bố mẹ và bạn bè quyết định: người thầy thuốc chữa
bệnh thì sẽ trả tiền, nhà kỹ sư thì trả lương, nhưng nếu không có nhà
thiên văn bói ra sự việc để về chữa chạy thì cô gái chết. Bèn cho nhà
thiên văn được lấy cô gái làm vợ.
Một trong mấy truyện của Ấn Độ kể trong sách Hai mươi lăm truyện quỷ (Vêtala pantachavincati)
(những truyện này đều là những trường hợp khó xử do một con quỷ nêu ra
để hỏi ý kiến vua Vi-krâ-ma) thì công lao lại không thuộc về nhà thiên
văn hay nhà kỹ sư:
Có
ba nhân vật trẻ đẹp, có tài nghệ, cùng một lúc đến hỏi một cô gái làm
cho cô và bố mẹ cô bối rối không biết nên như thế nào. Giữa lúc đó thì
bỗng quỷ bắt mất cô gái. Người thứ nhất giỏi thiên văn biết quỷ đã đưa
lên núi Vin-đi-a. Người thứ ba chế ra chiếc xe mang tới núi. Người thứ hai giết con quỷ và cứu cô gái. Vua phân xử: người thứ hai đáng làm chồng cô gái.[6]
Truyện của người Mô-rơ (Maures) (châu Phi) cũng có kết cục như trên:
Một
cô gái bị yêu tinh bắt. Một bà mẹ có bảy đứa con trai, láng giềng nhà
cô gái, nhận sẽ bảo mấy đứa con mình đi cứu. Khi các con bà về, đã thấy
bày sẵn giữa sân một cỗ yên cương nạm vàng, ở giữa nhà bày một bộ áo
quần đẹp có cả mũ và giày. Họ hỏi mẹ những thứ ấy để làm gì? Mẹ đáp: -
"Để thưởng cho đứa nào cứu được cô gái hàng xóm mất tích". Bảy con cùng
hăm hở nhận lời.
Trong
bảy ngày, một người có tài "nghe được tiếng sương rơi", liền phát hiện
ra lâu đài của yêu tinh, báo cho những người kia biết yêu tinh hiện đang
ngủ, răng quỷ cắn lấy tóc cô gái. Người thứ hai có tài "tay đặt vào cửa
là khóa mở ra", mở liên tiếp bảy cái cửa. Người thứ ba có tài "gỡ rối những sợi tơ vướng vào bụi gai", đã giật được tóc cô gái ra khỏi miệng yêu tinh mà nó không biết.
Người
thứ tư có tài " tung hứng và đuổi nhanh như gió" đã lần lượt ném cô gái
lên trời qua bảy lớp cửa, rồi lần lượt chạy vụt ra hứng cô trong cánh
tay. Khi họ lên ngựa phi về, thì người thứ nhất báo tin yêu tinh đã biến
thành diều hâu đang đuổi theo. Các anh em xúm nhau bắn chết. Sau đó, cô
gái lấy người đã gỡ tóc mình ra khỏi miệng yêu tinh.
Một truyện xứ Nga cũng xử cho cô gái lấy người ăn trộm:
Một
nông dân có bảy đứa con đều cùng một tên là Xi-mê-ông. Họ trẻ khỏe
nhưng lười và đủ tật xấu. Người cha đưa các con đến làm đầy tớ cho vua.
Vua hỏi mỗi người: - "Biết làm gì?". Một đứa trả lời: - "Tôi biết ăn
trộm". Một đứa khác: - "Tôi biết rèn những vật quý". Người thứ ba "có
thể bắn trúng chim bay". Người thứ tư "nếu chim rơi xuống nước, có thể
lội ra lấy về". Người thứ năm "trèo lên một chỗ cao nào đó có thể thấy
hết cả nước". Người thứ sáu "có thể đóng một chiếc tàu chạy rất nhanh".
Người thứ bảy "có thể chữa lành mọi bệnh".
Một
hôm, vua muốn lấy một công chúa nước khác nhưng không có cách gì bắt
về, bèn giao việc đó cho bảy người. Bọn họ lên tàu do một người đóng
tàu, đóng xong trong một thời gian rất ngắn. Đến nơi, một người trèo lên
cột cao nhìn và báo tin rằng lúc này công chúa đang ngồi một mình, có
thể bắt trộm được. Người thợ rèn rèn ngay hai món đồ đẹp cùng đi với
người ăn trộm vào cung để bán. Cuối cùng, người sau tìm được công chúa
đem về đến tàu rồi nhổ neo. Công chúa ở đây không bị bắt trở lại mà hóa
thành chim thiên nga bay đi. Người đi săn bắn ngay một phát vào đầu cánh
trái, chim rơi xuống nước. Người lặn giỏi vớt lên lại hóa nguyên hình
cô gái đẹp, nhưng tay cô bị thương. Đến lượt người thầy thuốc chữa lành
ngay.
Sau
khi đưa công chúa về, vua tự thấy mình quá già. Vua hỏi: - "Nàng muốn
lấy ai trong bảy anh em?". Công chúa chọn người ăn trộm. Bèn gả cho và
nhường luôn ngai vàng, lại cho các em của người ăn trộm làm chức quan to
(bôi-a).
Truyện của người Ý (Italia) ở Vơ-ni-dơ (Venise) thì cái may mắn thuộc về người vá tàu.
Một
người có bốn con trai và nuôi đỡ đầu một cô gái. Anh nào cũng muốn lấy
cô làm vợ. Người cha bảo chúng hãy đi học mỗi đứa một nghề, lúc trở về
ai tài giỏi vào bậc thầy sẽ gả cho. Khi họ trở về, cha báo cho biết là
cô gái đã bị mất tích. Anh chàng học nghề thầy pháp cho biết cô gái hiện
ở trong vườn của hoàng tử. Anh chàng học nghề ăn trộm lẻn vào vườn bắt
ngay cô gái rồi nhảy ra rất lẹ, đưa về thuyền.
Người
làm vườn sai một con rồng gác vườn đuổi theo. Rồng toan chụp bắt cô
gái, nhưng anh chàng bắn giỏi đã cho một phát súng. Rồng ngã xuống đè
lên thuyền, thuyền muốn vỡ tan, nhưng anh chàng học nghề thợ mộc đã nhảy
ngay xuống nước, trong nháy mắt chữa được thuyền lành lặn như cũ, và
đưa được cô gái về yên lành. Kết quả, người cha gả cô cho anh chàng thợ
mộc.
Những truyện dưới đây, nhân vật trung tâm là cô gái, không lấy một trong những người cứu mình, mà lại lấy người cha của họ.
Truyện trong sách Pen-ta-mơ-ron của Ba-di-lơ (Basile).
Một
người có năm đứa con. Thấy con không làm nghề ngỗng gì mà chỉ ăn hại,
bèn bảo đi tìm học mỗi đứa một nghề, và dặn vào một ngày nhất định thì
cả năm phải về nhà.
Đúng
hẹn, năm anh em cùng về. Người anh cả là bợm trộm không ai ăn đứt,
người thứ hai biết đóng tàu, người thứ ba có thuốc cải tử hoàn sinh,
người thứ tư có tài bắn nỏ và người thứ năm biết tiếng chim. Anh chàng
út tỏ tài bằng cách báo tin: anh vừa nghe một con chim đậu ở gần đó cho
biết, có một con yêu cướp một công chúa đưa đến núi đá, và vua cho rao
ai cứu được sẽ phong làm phò mã. Người thứ hai làm ngay một chiếc tàu,
trên đó năm người cùng đi với người cha đến núi đá. Cũng như truyện của
Đức, yêu tinh cũng đang ngủ say, đầu kê lên đùi công chúa. Người anh cả
khiêng một hòn đá cho con yêu kê đầu, rồi trộm công chúa về tàu. Yêu
cũng hóa thành mây đuổi theo, và cũng bị một phát tên rơi xuống tàu;
công chúa chết ngay cùng với yêu, nhưng được người thứ tư làm cho sống
lại. Lúc về, ai nấy đều tranh công. Vua giao cho người cha phân xử. Cuối
cùng, vua gả công chúa cho người cha của họ là người quan trọng trong
việc cứu công chúa.
Cũng
như truyện của người Bê-lút-sít-xtăng đã kể trên kia, một truyện khác
của người Hy-lạp (Grèce), của người Xu-a-hi-li ở đảo Dăng-di-bar
(Zanzibar) đều có ba anh em và ba vật quý: ống thiên lý kính, tấm thảm
bay và thuốc cải tử hoàn sinh (Hy-lạp); gương thần, chiếu biết bay và lọ
dầu hồi sinh (Xu-a-hi-li). Những vật này đều có vị trí quan trọng trong
việc cứu cô gái. Kết cục của truyện Hi-lạp: để chấm dứt tranh chấp giữa
ba hoàng tử, vua cha lấy cô làm vợ. Còn kết cục của truyện người
Xu-a-hi-li: khi ba anh bảo cô gái chọn một trong ba người làm chồng, thì
cô ta chọn người cha của họ "để cho cả ba gọi mình là mẹ".
So với các truyện vừa kể, truyện của người Tây-ban-nha (Espana) lại có kết cục lạ hơn: lấy cả ba.
Lần
đầu tiên, khi người cha cô gái báo chọn một trong ba người con trai đến
hỏi, cô trả lời: "Lấy cả ba". Người cha chuyển câu trả lời ấy cho ba
người và thêm vào: - "Vì đó là việc không thể được, nên sẽ gả cho người
nào màng về một vật quý và hiếm". Cuối cùng, cô gái cũng được cứu sống
nhờ có ba vật của ba người: tấm gương thần, cái thùng bay và dầu hồi
sinh, và câu đầu tiên cô nói là: - "Cha thấy không, phải lấy cả ba", rồi
truyện dừng lại ở đây.
Hai truyện sau đây có kết cục giống nhau và khá lý thú: cả mấy anh em và cô gái đều hóa ra các vì sao.
Một truyện của Đan Mạch (Danemark):
Có
sáu anh em được cha cho đi ra nước ngoài, mỗi người một phương, học mỗi
người một nghề. Người anh cả biết đóng tàu tự động chạy được. Người thứ
hai có thể lái tàu chạy trên bộ cũng như dưới nước. Người thứ ba ngồi ở
nước này nhưng có thể nghe chuyện người ta nói ở nước khác. Người thứ
tư bắn giỏi, không phải đợi đến phát thứ hai. Người thứ năm trèo được
thành cao. Người thứ sáu, bậc thầy trong nghề ăn trộm.
Truyện
cũng có nàng công chúa bị bắt do một mụ phù thủy hung ác. Vua cũng hẹn
gả cho người nào cứu được. Người anh cả liền đóng một chiếc tàu, tàu ấy
do người em thứ hai lái. Người tài nghe phát hiện ra chỗ giấu công chúa
trong một hòn núi thủy tinh. Người tài trèo trèo lên đỉnh núi, thấy tên
phù thủy đang ngủ, đầu cũng gối lên đầu gối công chúa. Anh ta trèo
xuống, cõng anh giỏi trộm lên và chỉ trong một chốc, anh này trộm được
công chúa, rồi cả hai được anh tài trèo cõng về tàu. Cũng như các truyện
trên, tàu chạy chưa được bao lâu thì người tài nghe báo tin tên phù
thủy đang bay trên không, đuổi theo tàu. Người tài bắn bắn một phát vào
chỗ hiểm nhất trong người tên phù thủy, như công chúa mách.
Cứu
được về nhà, cả sáu người đều muốn lấy công chúa làm vợ. Vua và công
chúa rất bối rối. Nhưng lúc bấy giờ, Trời không muốn để cho mấy anh em
xung đột nên làm cho họ và cả công chúa hóa thành sao, tức là chòm sao
Thất tinh. Người dân Đan-mạch nói ngôi sao sáng nhất trong đó là công
chúa, còn ngôi mờ nhất là anh chàng giỏi trộm. Đó cũng là mọt hình thức
đánh giá.
Truyện ở vùng sông Đa-nuýp (Danuble):
Công
chúa bị một con rồng hung ác bảy đầu bắt đi. Vua sai viên quan đầu
triều đi tìm. Viên quan tướng thất vọng đến nơi thì gặp một bà già, bà
này cho biết cứ đi tìm mẹ Rồng thì có thể tìm được công chúa. Gặp mẹ
Rồng, mẹ Rồng bảo chờ năm con trai mẹ về sẽ hỏi ý kiến. Năm người con
rồng này có phép màu nhiệm: người thứ nhất có thể lấy trộm bất cứ vật gì
theo ý muốn. Người thứ hai tìm được vật bị mất. Người thứ ba bắn tên
giỏi. Người thứ tư xây lâu đài trong nháy mắt. Người thứ năm đuổi theo
một vật nhanh như chớp.
Khi
năm chàng rồng trở về, họ bằng lòng giúp vua. Chỗ công chúa bị giam
liền được một người trong số họ phát hiện. Người thứ hai tìm vào, chiếm
được công chúa, thì con rồng hung ác lại chiếm lại, và đem lên không
trung. Nhưng chỉ một mũi tên của người bắn giỏi, rồng rơi xuống, đánh
rơi cả công chúa, nhờ có người thư năm nhanh chân nhanh tay đỡ lấy kịp
thời. Bị họ hàng nhà rồng hung ác đuổi theo, cả năm người cùng sứ giả
nhà vua ẩn trong lâu đài kín do người thứ tư xây dựng trong chốc lát.
Đến
lúc tranh công, bà mẹ Rồng đưa việc đó đi hỏi mẹ Gió, mẹ Gió bảo đi tìm
mẹ Trăng. Mẹ Trăng lại chuyển cho mẹ Trời. Mẹ Trời bảo chính mẹ Rồng là
người trọng tài tốt nhất. Lúc đó mẹ Rồng phán: - "Các con là con trai
ta, còn cô gái này là con gái của ta, là em gái của các con". Từ đó họ
bay lên trời và hóa thành bảy ngôi sao gọi là Vi-la-chít-chi. Mỗi năm,
bảy ngôi sao này phải đi thăm mẹ Gió, mẹ Trăng và mẹ Trời một lần, nên
hôm đó người ta thấy chúng xuất hiện trên bầu trời.
Người Mông-cổ có một truyện có những tình tiết và kết thúc khác hẳn nhưng xét kỹ, vẫn cùng một loại hình với truyện trên:
Có
sáu chàng thanh niên bỏ nước ra đi, khi đến chỗ có sáu con sông giao
nhau, họ bắt đầu chia tay mỗi người đi theo một ngả sông, sau khi đã
trồng mỗi người một loại cây ứng vào sinh mệnh của từng người. Họ hẹn sẽ
gặp nhau vào một ngày nhất định, hễ thấy cây của ai héo thì biết người
đó đang gặp nạn, và phải theo hướng ngả sông người đó mà đi cứu.
Một
chàng con nhà giàu ngược dòng đến một nơi ở với vợ chồng một ông lão và
được họ gả con gái đẹp cho làm vợ. Một hôm lính hầu của vua nhặt được
chiếc nhẫn có đá quý nổi trên sông gần đó, bèn đưa về cho vua. Vua bảo
phải đi tìm cho được người đàn bà chủ nhân của cái nhẫn. Khi bắt vợ
chàng kia về, vua thấy sắc đẹp vượt xa các người vợ của hắn thì muốn nạp
vào cung, nhưng người đàn bà đòi giữ thủy chung với chồng. Vua lại ra
lệnh cho lính hầu đi giết chồng. Xác người chồng bị chúng chôn ở bờ
sông, dần lên mộ một hòn đá lớn.
Khi
năm người kia về đến chỗ hẹn, thấy cây sinh mệnh của bạn đã héo.Một
người học phép độn tìm ra chỗ chôn xác. Một người học nghề rèn dùng búa
đập vỡ hòn đá, và người học thuốc cứu bạn sống lại. Một người học nghề
chạm tạc một con chim ga-ru-đa bằng gỗ có thể cho người ngồi vào trong
đó và chim bay được. Một người học nghề sơn vẽ tô đẹp cho con chim.
Người con nhà giàu cưỡi chim bay đến cung vua, lượn mấy vòng trên không
trung. Vua nhìn chim không chán mắt, lại gọi người đàn bà đẹp lên lầu
cao để xem và cho chim ăn. Nhân đó, người chồng cũ cho chim sà xuống cắp
lấy vợ đi luôn. Nhưng khi về đến nơi, ai cũng muốn lấy nàng, tranh nhau
không ai chịu ai. "Vậy thì chúng ta đều lấy". Họ nói thế và cắt người
đàn bà ra từng mảnh.[7]
Truyện của người Ấn-độ và người Ả-rập còn có kết cục lạ hơn. Sau đây là truyện của Ả-rập trong Nghìn lẻ một đêm:
Có
ba hoàng tử muốn lấy công chúa Nu-ru-ni-har con đỡ đầu của vua cha. Vua
cha quyết định sẽ gả cho người nào đi du lịch về mang một vật lạ và quý
nhất. Trong lúc họ chưa về thì công chúa bị đau nặng sắp chết. Hoàng tử
thứ nhất có cặp kính thần phát hiện ra công chúa chết. Hoàng tử thứ hai
có tấm thảm bay mang cả ba về đến tận buồng công chúa. Đến lượt hoàng
tử thứ ba cho nàng ngửi quả táo thần nên sống lại. Vua bối rối không
biết giải quyết thế nào, mới bảo ba người bắn cung, ai bắn xa hơn thì
được lấy công chúa. Mũi tên của hoàng tử thứ ba xa hơn nhưng lại không
tìm ra dấu, nên công chúa về tay hoàng tử thứ hai.
Phần
sau của truyện chuyển sang một hướng khác.Hoàng tử thứ ba Át-mét do đi
tìm mũi tên của mình mà gặp nàng tiên Pa-ri Ba-nu. Hai người đưa nhau về
cung và kết làm vợ chồng, nhưng hoàng tử thỉnh thoảng được vợ cho về
thăm vua cha. Nghe mồm bọn nịnh thần, vua cha bắt chàng phải đi tìm: lần
đầu, một cái màn có thể che được khắp đại đội quân mã của nhà vua nhưng
lại có thể cầm gọn trong bàn tay; lần thứ hai, một thứ nước thần ở suối
sư tử có thể chữa mọi bệnh; lần thứ ba, một con người lùn dị dạng cầm
một cây gậy sắt nặng năm trăm cân. Nhưng lần cuối cùng, khi đưa người
lùn dị dạng về triều, với cây gậy sắt, người lùn đã giết chết bọn nịnh
thần và đưa Át-mét lên làm vua nước Ấn-độ.[8]
Phần
nào giống với truyện của Ả-rập là truyện Triều-tiên: Có ba chàng yêu
một cô gái. Cô gái hỏi ý kiến một đạo sĩ ở Hắc-long-sơn, cụ trao cho ba
đồng tiền bảo cho mỗi anh một đồng, ai mua được vật gì quý hơn thì lấy.
Anh chàng thứ nhất mua được chiếc gương thần phát hiện ra cô gái ốm sắp
chết. Anh thứ hai mua được con lạc đà kỳ diệu, nhờ nó mà cả ba cùng về
tới nơi trong nháy mắt. Với quả táo thần của người thứ ba, cô gái khỏi
bệnh ngay lập tức. Cô bèn bảo ba anh chàng tranh công tự suy nghĩ xem ai
hơn, nhưng ba ngày ba đêm vẫn chưa xong. Trước khi phân xử, cô gái dặn
một cái chuông cổ là hễ cô phân xử đúng thì nó sẽ ngân lên. Cô phán như
sau: - "Tôi sẽ lấy chàng thứ ba vì chàng mua táo không vì mình, mà vì
người khác. Vả chăng, quả táo đã bị ăn mất, còn hai vật kia của hai
người vẫn còn nguyên vẹn". Phán xong, chuông cổ ngân lên. Thế là cô lấy
anh chàng thứ ba làm chồng.[9]
Thuộc loại truyện phân xử này còn có một loạt truyện khác, cũng hơi gần gũi về kết cấu và chủ đề. Xin kể dưới đây một số.
Ba truyện của người Khơ-me (Khrmer):
1.
Nhà sư hoàn tục và ba cô gái: một nhà sư vừa hoàn tục để kiếm vợ. Một
hôm tắm ở sông bỗng bờ sông sụt lở đẩy anh ra xa. Không biết bơi, anh
chới với kêu cứu. Có ba cô đi lấy nước gần đấy. Cô thứ nhất đẩy ra một
khúc gỗ cho anh ôm. Nhưng anh vẫn chới với không vào được. Thấy vậy cô
thứ hai đưa ra một sào tre cho anh nắm để kéo vào. Thấy anh trần truồng,
cô thứ ba cởi ngay tấm chăn ở người cho anh khoác. Thấy anh đẹp trai,
cả ba cô tranh công để được lấy làm chồng. Không ai chịu ai nên đưa lên
quan. Hai cô đầu đều nói: - "Nếu không có tôi thì chắc tính mạng anh đâu
còn". Cô thứ ba nghe quan hỏi, đáp: - "Tôi không cứu tính mạng anh ấy,
vì thấy anh ấy lõa lồ nên tôi quẳng chăn cho để che". Sau một hồi suy
nghĩ, quan phán: - "Hai cô đầu làm bổn phận một cách tự hào, hành động
ấy rất đẹp, đáng được coi như mẹ chàng trai. Còn cô thứ ba thấy người
không quần áo nên cởi chăn cho. Đó là sự e lệ, là tình cảm nam nữ. Hành
động của cô nảy sinh mối quan hệ giữa hai người. Vậy cô đáng được coi là
người yêu của chàng trai".[10]
2.
Người ăn trộm và bốn cô gái: một người ăn trộm đang hành nghề thì bị
bắt treo cổ lên tường, theo lệ phải có một ngàn đồng vàng thì mới được
chuộc mạng. Có bốn cô gái vốn yêu hắn từ trước: một cô gái giàu có bỏ
tiền chuộc về, nhưng hắn bị thương tích và nằm mê man bất tỉnh, cô thứ
hai kiếm thầy chạy chữa cho khỏi chết. Cô thứ ba bán hết tư trang để
phụng dưỡng cho hắn. Cô thứ tư hàng ngày rửa vết thương nâng giấc hầu
hạ. Chẳng bao lâu hắn bình phục, bốn cô cùng tranh công để được lấy làm
chồng. Việc đưa đến vua, vua phán: - "Người bỏ tiền chuộc được coi như
cha người ăn trộm; người thuốc thanh được coi như mẹ; người bán tư trang
được coi như chị; còn người lau rửa vết thương săn sóc hàng ngày được
coi như vợ".
3.
Cô gái đẹp và ba chàng trai: có ba chàng trai yêu một cô gái nhưng
không được bố mẹ thuận gả. Cô gái tự nhiên chết. Ba chàng rất thương
xót. Một người làm lễ hỏa táng thu nhặt hài cốt chôn cất tử tế; người
thứ hai ôm lấy mộ khóc lóc thảm thiết; còn người thứ ba bỏ quê đi học
phép cải tử hoàn sinh, cuối cùng phép thuật của hắn làm cho cô gái sống
lại. Cả ba đều tranh lấy cô làm vợ. Việc đưa đến tai vua. Vua xử cho
chàng trai thứ nhất là con cô gái vì việc thu cất hài cốt là phận sự của
con với cha mẹ; người thứ ba là cha cô gái vì việc cứu vớt chạy chữa là
phận sự của cha mẹ đối với con. Còn người thứ hai mới là chồng của cô
gái: có là chồng thì mới ôm ấp săn sóc vợ lúc chết cũng như lúc sống.[11]
Trong sách Hai mươi lăm truyện quỷ của Ấn-độ (đã dẫn) có một truyện tương tự truyện vừa kể ở trên, đoạn cuối như sau:
Một
cô gái bị rắn độc cắn chết. Cha cô gái làm lễ đốt xác. Người thứ nhất
nhặt xương bó lại mang đi hết rừng này sang rừng khác. Người thứ hai
nhặt tro rồi làm nhà ở lại mộ. Người thứ ba đi hết nơi này sang nơi
khác. Một hôm vào nhà một người bà-la-môn xin ăn. Chủ nhà mời anh ăn
uống tử tế. Giữa lúc ấy, vì đứa con quấy mẹ, người chủ nhà ném thằng bé
vào lò sưởi cháy thành than. Thấy vậy, anh nghẹn ngào không ăn được nữa.
Chủ nhà lấy một quyển sách, đọc một câu chú thì đứa bé lại sống lại.
Anh bèn ăn trộm quyển sách ấy về làm sống cô gái. Sống lại, cô gái là
đối tượng tranh giành của cả ba người. Vua Vi-krâ-ma xử rằng: người giữ
xương là con, người cứu sống là cha, người dựng nhà bên đống tro mới là
chồng.
Cũng quyển sách trên, còn có một truyện:
Có
bốn chàng trai đẹp, trẻ, khỏe cùng một lúc đến hỏi một công chúa làm
vợ. Người thứ nhất xưng có tài làm áo bán được nhiều tiền. Người thứ hai
xưng hiểu tiếng loài vật trên cạn cũng như dưới nước. Người thứ ba xưng
đọc được nhiều sách. Người thứ tư xưng bắn giỏi. Cô không biết lấy ai
vì họ tài ngang nhau. Quỷ đem chuyện ấy hỏi vua Vi-krâ-ma. Vua đáp:
người làm áo và bán áo thuộc đẳng cấp bình dân (xu-đơ-ra); người biết
tiếng loài vật trên cạn cũng như dưới nước thuộc đẳng cấp nô lệ
(vai-xia); người đọc sách thuộc đẳng cấp bà-la-môn; người bắn giỏi xứng
đáng với công chúa vì thuộc đẳng cấp võ sĩ. [12]
Người Miến-điện (Myanmar) cũng có hai truyện:
1.
Tình yêu chân chính: giống với truyện Khơ-me vừa kể: ở xứ Kham-ban-sa
có bốn người nhà giàu kết bạn thân, ba người đều có con trai, người thứ
tư có cô con gái đẹp; cả ba chàng trai đều tha thiết muốn lấy. Trước khi
nhận lời, bố mẹ cô gái hỏi mỗi người xem giả dụ con gái mình chết trước
khi cưới thì thái độ của họ như thế nào? Một người hứa thân hành đốt
xác trông nom đám ma chu tất. Người thứ hai hứa sẽ chôn cất xương tro
làm lăng mộ tốt đẹp. Người thứ ba hứa chăm sóc đêm ngày ở mộ cho đến khi
hắn chết. Cô gái quả chết trước mười lăm tuổi. Cả ba chàng trai đều làm
như lời hứa. Sau đó, trong khi người thứ ba trông nom ở mộ thì có một
đạo sĩ (y-ô-ghi) thương hại hắn, hóa phép làm cho cô gái sống lại. Cả ba
tranh công. Cuối cùng phải đưa đến công chúa Thu-đam-ma Sa-ri. Công
chúa phán: chỉ có người thứ ba là có tình yêu chân chính, vì hắn tự
nguyện làm việc gác mộ là việc mà xã hội khinh thị, loại khỏi đẳng cấp
đến bảy đời. Do đó hắn có quyền lấy cô gái.
2.
Ba người vợ tranh nhau một chồng: cũng ở xứ Kham-ban-sa có một chàng
trai con một nhà giàu lấy vợ sớm. Khi chiêm bao thấy số phận mình sẽ
chết vì rắn cắn, hắn bèn dặn người nhà đừng hỏa táng mà cho lên bè thả
sông. Sau hắn quả bị rắn cắn mà chết, vợ hắn làm theo lời dặn. Bè trôi
đến một nơi có ba cô gái đang gội, nhờ người bố của ba cô có phép mầu
trị rắn nên cứu được hắn sống lại. Thấy anh chàng rất đẹp trai, ba cô
gái lúc đầu giành nhau làm chồng, nhưng sau thỏa thuận thả cho về. Một
cô cột cho hắn một dây bùa làm hắn hóa thành con vẹt. Chim bay vào vườn
nhà vua cắn phá cây quả. Người ta bắt được, đem nộp công chúa. Công chúa
yêu chim, nuôi ở trong buồng. Một hôm vô tình cất sợi dây bùa, chim
bỗng biến thành người. Hai người từ đấy lén lút yêu nhau; đêm là người,
ngày là vẹt. Vua thấy công chúa mỗi ngày một khác, ra lệnh truy tìm rất
gắt thủ phạm. Hắn nghe tin sợ quá, bay qua cửa sổ đi trốn. Vừa ra khỏi
cung, sợi dây bùa rơi, hóa thành người. Bị lính lùng đuổi, hắn lọt vào
một nhà nọ, có hai vợ chồng và một người con gái đang ăn cơm. Hắn nói
thật với họ và cầu cứu. Nhà ấy cho hắn ngồi vào mâm ăn luôn, và khi lính
vào thì nhận hắn là rể. Sau đó, hắn được nhà ấy gả con gái cho làm vợ.
Công chúa mất người yêu, dần dần đâm ra sầu muộn đến đau nặng. Các
lang y bó tay. Vua cha hỏi và khi biết sự thật, vua sai mở hội trong
cung, buộc tất cả mọi người phải đến dự để con gái nhận người yêu. Khi
công chúa nhận ra, thì người vợ cũ của anh chàng cũng nhận ra chồng cũ.
Thế là cả ba người đàn bà tranh nhau chồng. Việc đưa đến Thu-đam-ma
Sa-ri, người này phán: - "Người vợ cũ khi thả chồng lên bè thế là hết
duyên nghĩa, không có quyền gì nữa. Công chúa khi để cho người yêu đi
trốn mà không có phản ứng ngay, cũng là hết tình nghĩa từ đó. Còn cô gái
lấy sau cùng, tình nghĩa chưa tỏ ra có gì phai nhạt, nên có quyền được
giữ chàng làm chồng. [13]
Truyện cuối cùng Ba anh em của
Pháp, do Grim (Grimm) kể: Một người cha, tài sản chỉ có mỗi một ngôi
nhà, không biết để lại cho ai trong ba đứa con. Bèn bảo các con đi học
nghề, hẹn một ngày nào đó phải trở về thi tài, ai hơn sẽ được hưởng ngôi
nhà. Người anh cả học nghề bịt móng ngựa. Người thứ hai học nghề phó
cạo và người thứ ba học múa gươm.
Khi
họ về đông đủ, giữa lúc đang chuyện trò, bỗng có bóng một con thỏ rừng
sắp chạy qua, phó cạo ta lập tức lấy dao, xà phòng chờ cho con thỏ chạy
ngang nhà, đuổi theo xát xà phòng và cạo nhẵn bộ lông mép mà không làm
xây xát. Lát sau, một chiếc xe bốn ngựa phi qua, anh bịt móng ngựa đuổi
theo cỗ xe, tháo bốn móng sắt của một con trong đoàn và thay bốn móng
mới trong lúc nó vẫn phi nước đại. Để trổ tài, người con út nhân lúc
trời mưa như cầm vò mà trút, lấy gươm ra múa tít trên đầu, mưa không lọt
được xuống đường gươm, quần áo vẫn khô. Người cha tặng ngôi nhà cho con
út.[14]